Cơ hội “vàng” cho doanh nghiệp sau đại dịch - xuất khẩu sang thị trường Trung Đông

18/03/2022 11:05 (GMT+7)
(KD&BM) - Thị trường Trung Đông đang nổi lên như khối thị trường xuất khẩu tiềm năng cho doanh nghiệp (DN) Việt Nam nhất là trong bối cảnh sau đại dịch, khi nhu cầu tiêu dùng, nhập khẩu tăng cao, đặc biệt là các mặt hàng gỗ, nhựa, dệt may, giày dép, thịt, sữa...

Hôm qua (17/3), đã diễn ra Hội thảo “Cơ hội vàng cho DN xuất khẩu Việt đến các quốc gia Trung Đông sau đại dịch Covid-19” do Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư TPHCM (ITPC) tổ chức. Tại hội thảo, ông Nguyễn Tuấn – Phó Giám đốc Trung tâm cho biết, quan hệ thương mại của Việt Nam với khu vực Trung Đông chủ yếu tập trung vào các quốc gia thuộc Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh (GCC) với 06 quốc gia thành viên là Các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất (UAE), Arab Saudi, Kuwait, Bahrain, Qatar và Oman có tổng dân số 65 triệu người (năm 2021). Các quốc gia GCC có nền kinh tế mở, phát triển ngoại thương, thu hút đầu tư nước ngoài, du lịch, dịch vụ, đa dạng hóa nền kinh tế, thúc đẩy xuất nhập khẩu.

Hội thảo “Cơ hội vàng cho DN xuất khẩu Việt đến các quốc gia Trung Đông sau đại dịch Covid-19” tại TP. Hồ Chí Minh (Ảnh: BCT)
 

Cơ hội “vàng” cho DN Việt Nam

Cụ thể, các quốc gia Trung Đông có nhu cầu nhập khẩu rất lớn, dao động từ 2 - 8 tỷ USD đối với các mặt hàng như đồ gỗ, sản phẩm nhựa, dệt may, giày dép, cao su và các sản phẩm cao su… Đây đều là những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam. Tuy nhiên, tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu này của Việt Nam trong cơ cấu nhập khẩu của các nước Trung Đông vẫn còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng.

Ông Ngô Toàn Thắng - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Kuwait cho biết, hiện 6 nước GCC đều là thành viên WTO. Trong vài năm gần đây, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước GCC gia tăng nhanh chóng và có mức tăng đột biến từ năm 2012 đến nay. Năm 2012, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước GCC mới đạt 2,7 tỷ USD, tới năm 2021 đã tăng gấp 4,6 lần, đạt 12,5 tỷ USD.

Theo số liệu thống kê, các quốc gia này nhập khẩu khoảng 80% các mặt hàng lương thực, thực phẩm, tương đương khoảng 40 tỷ USD/năm. Ngành nông nghiệp của khu vực Trung Đông còn chưa phát triển do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt; công nghiệp sản xuất còn hạn chế, nên vẫn phải nhập khẩu nhiều thực phẩm, hàng tiêu dùng. Dự kiến đến năm 2035, tổng giá trị nhập khẩu lương thực, thực phẩm của các nước vùng Trung Đông sẽ tăng lên 70 tỷ USD/năm.

Việt Nam có quan hệ ngoại giao, quan hệ hợp tác truyền thống hữu nghị lâu dài, có khuôn khổ pháp lý khá đầy đủ cho việc phát triển và tăng cường quan hệ hợp tác với các nước GCC, cơ hội cho DN Việt Nam tại thị trường GCC càng rộng mở hơn. Ngoài ra, khối GCC có sức mua lớn, khả năng thanh toán cao do có nguồn tài chính dồi dào. Một ưu thế nữa là thuế nhập khẩu của khối GCC khá thấp chỉ từ 0 - 5% đối với hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài khối. Chính vì điều này mà Trung Đông trở thành một thị trường đầy tiềm năng của DN xuất khẩu Việt Nam.

Cần chứng nhận Halal - chìa khóa “vàng” để xuất khẩu sang thị trường Trung Đông

Thị trường các nước GCC yêu cầu giấy chứng nhận về tiêu chuẩn, kiểm định chất lượng, nhãn mác... do Tổ chức Tiêu chuẩn và Đo lường vùng Vịnh (GSMO) cấp, giấy chứng nhận Halal đối với các sản phẩm thực phẩm, thủy sản nhập khẩu. Đây là một rào cản lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Theo ông Tuấn, hiện nay DN Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận thị trường Trung Đông như thiếu thông tin, những rào cản về logistics và thanh toán quốc tế. Vì vậy, DN rất cần nhận được sự hỗ trợ từ các cơ quan tổ chức ngoại giao của Việt Nam tại khu vực, cũng như các cơ quan xúc tiến thương mại và đầu tư.

Các quốc gia Trung Đông chủ yếu theo Hồi giáo, có văn hóa kinh doanh đặc biệt và yêu cầu các sản phẩm, dịch vụ xuất khẩu phải có chứng nhận Halal.

Tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng, Giám đốc Marketing Văn phòng chứng nhận Halal – HCA Việt Nam cho biết, lợi ích của chứng nhận Halal ( (theo ngôn ngữ Ả Rập có nghĩa là "hợp pháp" hoặc “được phép dùng”) là vô cùng lớn. Nó giúp doanh nghiệp có thể đáp ứng được các yêu cầu khi xuất khẩu vào các quốc gia Hồi giáo; tạo lòng tin cho người tiêu dùng, được người tiêu dùng khắp nơi trên thế giới lựa chọn vì đáp ứng cả các yêu cầu về kiểm soát chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, qua đó tăng đối tượng sử dụng sản phẩm; giúp doanh nghiệp tăng cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng nguyên liệu và sản phẩm Halal toàn cầu.

Bà Hằng cũng cho biết thêm DN cần đáp ứng được đồng thời hai điều kiện là nguyên liệu Halal và dây chuyền sản xuất Halal để sản phẩm được chứng nhận Halal. Cụ thể, ngoài việc nguyên liệu, phụ gia, hóa chất… thì trên cùng một dây chuyền không được sản xuất lẫn lộn sản phẩm. Việc đạt các yêu cầu vệ sinh, quản lý chất lượng sản phẩm HACCP, ISO 22000… là lợi thế lớn cho DN xuất khẩu.

Bà Hằng cũng nhấn mạnh, trong quá trình đánh giá Halal, cơ quan đánh giá sẽ tiến hành truy xuất nguyên liệu và tất cả thành phần có trong quá trình sản xuất, nên doanh nghiệp cần phải rất kỹ trong khâu này.

Thanh Tuyền

 

Kích thước font In ấn

Bình luận chia sẻ

Xuất nhập khẩu
amity.com.vn
Hi fpt
https://tanadaithanh.vn/
winvoucher.winmart.vn
http://gfs.com.vn
http://www.vafood.com.vn/
Tạp chí điện tử Kinh Doanh và Biên mậu Việt Nam
Cơ quan chủ quản: Hiệp hội Thương nhân kinh doanh biên mậu Việt Nam
Số giấy phép: số 450/GP-BTTTT, cấp ngày 8/10/2020, cấp bởi Bộ Thông tin và Truyền thông
 139 đường Nghi Tàm, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.


Tổng biên tập: Ông Phạm Bá Dục
Tổng thư ký: Ông Phạm Hoàng Vũ
Email: kinhdoanhvabienmau@gmail.com
Mọi thông tin bạn đọc vui lòng liên hệ đường dây nóng: 0865191826
® Bản quyền thuộc về Tạp chí điện tử Kinh Doanh và Biên mậu Việt Nam, mọi sao chép phải được sự đồng ý bằng văn bản của Tạp chí điện tử Kinh Doanh và Biên mậu Việt Nam.