Theo tiến trình lịch sử, các bản hiến pháp lần lượt được ra đời để đáp ứng yêu cầu mới của cánh mạng Việt Nam. Mỗi bản hiến pháp mới là một tiến bộ mới về tư tưởng lập pháp, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động văn học, nghệ thuật và khoa học, công nghệ. Những cam kết trong hiến pháp là tuyên ngôn của Nhà nước Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, tự do sáng tạo, khuyến khích đầu tư phát triển tài năng và ứng dụng các sản phẩm sáng tạo vào cuộc sống, là cơ chế bảo hộ công khai, minh bạch về quyền sở hứu trí tuệ.
Hiến pháp đầu tiên vào năm 1946, Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản,(điều 10) quyền tư hữu về tài sản của công dân (điều 12) và đảm bảo quyền lợi của giới cần lao, trí thức ( điều 13) là những quyền cơ bản của công dân nói chung, của văn nghệ sĩ, trí thức, nhà khoa nói riêng đối với các tài sản hữu hình và vô hình.
Hiến pháp năm1959 Tiếp tục thừa nhận quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, thể hiện ở Điều : ”Công dân Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa khác. Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ tính sáng tạo của những công dân theo đuổi sự nghiệp khoa học, văn học, nghệ thuật và các sự nghiệp văn hóa khác”
Hiến pháp 1980, có tiến bộ mới, Nhà nước cam kết bồi dưỡng và phát huy khả năng, sở trường, năng khiếu của công dân, Đồng thời còn đề cập tới cam kết bảo đảm quyền lợi của tác giả, đối với các sáng tạo văn học, nghệ thuật và khoa học. Thể hiện tại điều 72 :”Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật sáng tác văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa khác. Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ công dân theo đuổi sự nghiệp khoa hoc, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật nhằm phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc; bồi dưỡng phát huy sở trường và năng khiếu cá nhân. Quyền lợi của tác giả và của người sáng chế, phát minh được bảo đảm”.
Hiến pháp 1992, lần đầu ở Việt Nam đã xuất hiện một cụm từ mới, thể hiện thái độ tích cực của Nhà nước, phù hợp với thuật ngữ của quốc tế, về bảo hộ tài sản trí tuệ. Tiến bộ này đã được ghi tại điều 60:”Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, sáng tác văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp.”
Hiến pháp 2013, là bản hiến pháp thứ năm đang có hiệu lưc, với quy định tại điều 40: ”Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học, và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”, và điều 62.2 :”Nhà nước ưu tiên và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”.Quy định này ngoài việc kế thừa những tiến bộ tại các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp 1992, còn là tuyên ngôn mới, quan trọng của Nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Như vậy, mỗi bản Hiến pháp ra đời, được sửa đổi, bổ sung những nội dung mới về sở hữu trí tuệ phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng Việt nam. Đó là cơ chế bảo hộ đồng bộ từ việc thừa nhận quyền và khuyến khích đầu tư sáng tạo, chuyển giao ứng dụng đến bảo hộ thành quả của lao động sáng tạo. Nó là tư tưởng chủ đạo cho việc ban hành Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ và luật thuộc các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, khoa học- công nghệ và các luật khác có liên quan.
Để tiếp tục đưa Hiến pháp vào cuộc sống, thúc đẩy công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có bước tiến mới, bảo vệ được tài sản hợp pháp của các tổ chức và công dân, góp phần tăng trưởng kinh tế, cần thực hiện một số công việc chính sau:
-Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luận theo hướng mở rộng khung phâp lý bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như các nước phát triển, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Cụ thể hóa các chế định pháp luật trừu tượng, phức tạp, làm cho nó dễ hiểu, dễ áp dụng.
-Tăng cường năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý, thực thi từ trung ương đến địa phương. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức quản lý, thực thi đáp ứng yêu cầu mới của việc bảo hộ có kết quả thực tế quyền sở hữu trí tuệ tại quốc gia và hội nhập quốc tế. Tập trung đào tạo đội ngũ nhân sự có năng lực phù hợp để quản lý, thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, kỷ nguyên kỹ thuật số.
-Ngăn chặn có hiệu quả tại biên giới, cửa khẩu các vụ xuất, nhập khẩu hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời tăng cường việc thanh tra, kiểm tra xử lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng giả, hàng nhái,hàng xâm phậm quyền sở hữu trí tuệ tại thị trường nội địa.
-Nâng cao nhận thức, tri thức và ý thức chấp hành pháp luật, đặc biết là các tổ chức, công dân có quyền sở hữu trí tuệ để họ chủ động sử dụng công cụ pháp luật nhằm tự bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mình. Tạo ra dư luận xã hội về việc tẩy chay hàng nhái, hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Từng bước xây dựng văn hóa bản quyền của một xã hội văn minh.
-Mở rộng hợp tác quốc tế, trao đổi thông tin, kinh nghiệm quản lý, thực thi quyền sở hữu trí tuệ với các nước có nền công nghiệp sáng tạo phát triển, bảo hộ có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ. Thực hiện nghiêm chỉnh các Điều ước quốc tế song phương và đa phương về sở hữu trí tuệ, các Hiệp định thương mại tự do đã có hiệu lực. Nghiên cứu để có thể tham gia, ký kết một số điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệvào thời gian thích hợp./.
TS. Vũ Mạnh Chu